Các văn nghệ sĩ Việt Nam tại chiến khu Việt Bắc trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Và đó cũng là sự kế thừa lịch sử. Có nhẽ không có mấy dân tộc trên thế giới lại chịu sự đô hộ và xâm lược của ngoại bang nhiều như nước ta. Và cũng không nhiều lắm những dân tộc lại có được một truyền thống vô cùng quý giá luôn luôn có một hàng ngũ trí thức, văn nghệ sĩ nồng nàn tinh thần yêu nước, mang nặng nghĩa vụ xã hội, cảm thông sâu sắc và gắn bó chém với quần chúng như ở nước ta. Chính điều này làm nên một sự kỳ diệu: cùng với một võ công lừng lẫy là một chiến công văn hiến hiển hách. Thắng Tống có Nam quốc đất nước của Lý Thường Kiệt; thắng Nguyên có Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn và nền thơ đầy hào khí Đông A đời Trần; thắng Minh có Bình Ngô vịn của Nguyễn Trãi; thắng thực dân Pháp, đế quốc Mỹ có một nền văn nghệ cách mệnh và kháng chiến hào hùng, nhân văn với hàng trăm đỉnh cao tỏa sáng đến muôn sau trên các lĩnh vực, đặc biệt là văn học và âm nhạc, làm nên một thời đại "Tiếng hát át tiếng bom". Điều mới mẻ của văn nghệ Việt Nam từ khi có Đảng là có tổ chức. Văn nghệ sĩ tình nguyện dấn thân vào cuộc chống chọi vì lý tưởng. Đảng vận động, tổ chức và tạo điều kiện tốt nhất để người nghệ sĩ hiểu biết về chính trị, về con đường tiến lên của dân tộc và hiểu biết sâu sắc đời sống của quần chúng trên mọi miền đất nước. Chính do vậy, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, người nghệ sĩ với một động cơ sáng tạo đúng đắn, hút được nhụy mật từ suối nguồn nhân dân vô tận, đã sáng tạo nên những tác phẩm xứng tầm thời đại, đáp ứng nhu cầu công chúng, có sức lay động đời sau. Tổ chức đầu tiên của văn nghệ sĩ cách mệnh là Hội Văn hóa Cứu quốc năm 1943, đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của các đồng chí Trường Chinh, Lê Quang Đạo. Những thành viên trước nhất gồm Hải Triều, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Kim Lân, Bùi Hiển, Chế Lan Viên... Tháng 12-1946, sau khi giành được chính quyền, chuẩn bị Toàn quốc kháng chiến, Trung ương tổ chức Hội nghị văn hóa cứu quốc lần thứ nhất. Năm 1947, Pháp mở trận càn lớn lên Việt Bắc gồm hai binh đoàn do Sác-tông và Lơ-pa-giơ chỉ huy nhằm xoá sổ các cơ quan đầu não của ta. Nhưng hai gọng kìm sắt đó tuần tự bị bẻ gãy, cuộc kháng chiến chuyển sang thời đoạn phản công. Nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến đi đến chiến thắng hoàn toàn và chuẩn bị cho cuộc kiến quốc sau này, Hội nghị văn hóa cứu quốc lần thứ hai được triệu tập, họp tại thôn Dộc Phát, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ từ ngày 23 đến 25-7-1948. Tại hội nghị này, đồng chí Trường Chinh đã thay mặt Trung ương mô tả bản luận văn quan trọng Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam. Sau những nội dung quan yếu về xây dựng nền văn hóa mới, đồng chí nêu ra ba phương châm đối với những người hoạt động văn hóa: 1. Tuyệt đối giáp với giang sơn, với kháng chiến, không thỏa hiệp với tư tưởng và văn hóa phản động, giò lập, không giữ thái độ bàng quan. 2. Ra công nghiên cứu khoa học, kỹ thuật để áp dụng vào sản xuất, đấu tranh và đời sống con người; lấy học thuyết Mác - Lê-nin làm kim chỉ nam cho hành động; biết và làm đi đôi, lý luận và thực tế kết hợp. 3. Một lòng một dạ phục vụ quần chúng; gần gụi dân chúng công nông binh, cảm thông với quần chúng. #, Học hỏi quần chúng. #, Nhưng giáo dục và dìu dắt quần chúng. #. Đó là thái độ chân chính của các chiến sĩ văn hóa mới chúng ta và cũng là bí quyết thành công của chúng ta. Ngày chung cục của hội nghị này, giới văn nghệ họp riêng và thành lập Hội Văn nghệ Việt Nam do nhà văn Nguyễn Tuân làm Tổng Thư ký, thi sĩ Tố Hữu làm Phó Tổng Thư ký. Đây là tổ chức tiền thân của liên hợp các Hội VHNT Việt Nam bây chừ, ngày 25-7 được lấy làm Ngày truyền thống của liên hợp. Năm 1957, Hội Văn nghệ đổi tên thành Hội Liên hiệp VHNT Việt Nam với bốn hội chuyên ngành: Hội Nhà văn, Hội Nhạc sĩ, Hội sàn diễn, Hội Mỹ thuật. Năm 1960 thành lập Hội Văn nghệ Giải phóng. Năm 1995, Hội Liên hiệp VHNT Việt Nam đổi tên thành liên hợp các Hội VHNT Việt Nam. Ngày nay, liên hợp có 10 hội chuyên ngành ở Trung ương, 63 hội địa phương với 40 nghìn văn nghệ sĩ tham dự, do thi sĩ Hữu Thỉnh làm Chủ tịch. Trong suốt gần một thế kỷ qua, văn nghệ sĩ nước nhà đã một lòng trung thành với Đảng, với sự nghiệp của quần chúng. #, Dấn thân với tinh thần chiến sĩ trên mọi chiến trường nóng bỏng nhất của cuộc sống. Nhiều người hy sinh ở tuổi thanh xuân, hy sinh ở buổi nhân kiệt đang chín rộ. Trái tim họ biết rằng, sự nghiệp nghệ thuật là rất lớn, rất quang vinh, nhưng không có sự nghiệp nào lớn hơn sự nghiệp phóng thích giang sơn. Từ tháng 4-1984 đến tháng 4-2012, để ghi nhận sự đóng góp quý giá của các văn nghệ sĩ thuộc các chuyên ngành trên các lĩnh vực sáng tác, biểu diễn, nghiên cứu lý luận phê bình, dịch thuật... Nhà nước đã tiến hành bảy đợt xét duyệt, vinh danh 266 NSND, 1.993 NSƯT trên lĩnh vực nghệ thuật trình diễn; trao tặng 104 Giải thưởng Hồ Chí Minh, 458 Giải thưởng quốc gia cho các văn nghệ sĩ có những cống hiến xuất sắc trên các lĩnh vực sáng tạo tác phẩm. Không chỉ về mặt ý thức, quốc gia và dân chúng luôn chăm lo cho đời sống người nghệ sĩ. Người nghệ sĩ đi đến đâu, cũng được dân chúng trân trọng, đùm bọc. Trong hai nhiệm kỳ Chính phủ gần đây, mỗi nhiệm kỳ đều đầu tư 375 tỷ đồng cho hoạt động sáng tạo nghệ thuật chuẩn y các tổ chức hội. Sự đầu tư lớn, khi trở nên một chính sách ổn định và thẳng tuột sẽ là một bảo đảm để người nghệ sĩ được sống bằng nghề, sẽ kích thích sự tụ họp sáng tạo. Từ tháng 3-1992, từ đề xuất của liên hợp, quốc gia có thêm chính sách ưu đãi đối với văn nghệ sĩ, trí thức, thân sĩ từ 70 tuổi trở lên, có đóng góp quan trọng, có cảnh ngộ khó khăn, được hưởng khoản phụ cấp 2,3 triệu đồng/tháng. Kỷ niệm 65 năm thành lập Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam vào tháng 7-2013, chính là dịp để tưởng nhớ và ghi ơn các văn nghệ sĩ lớp trước đã hy sinh trong hai cuộc kháng chiến, tôn vinh cần lao sáng tạo của toàn giới; cũng là dịp xốc lại đội ngũ, chấn chỉnh những khuynh hướng sai lạc, phục hưng những lĩnh vực yếu kém và khó khăn như Sân khấu, điện ảnh... Điều quan trọng nhất là cổ vũ hàng ngũ văn nghệ sĩ mở mang sự tìm kiếm mọi hình thức, phát huy mọi tiềm năng, sáng tạo ra những tác phẩm đỉnh cao, chuẩn bị cho nhân dân về mặt tinh thần, đạo đức, lẽ sống cao đẹp để chẳng những xây dựng thành công một tổ quốc công nghiệp mà còn xây dựng một tầng lớp có hạnh phúc. Nghệ sĩ vẫn là đội viên trên chiến trường văn hóa. Những phương châm mà đồng chí Trường Chinh từng nêu ra năm 1948 mà phương châm trước hết là Tuyệt đối áp với đất nước còn tươi nguyên giá trị. Đội ngũ văn nghệ sĩ phải mạnh lên trong tổ chức hội, trong liên hợp hội, phải là người tiền phong, là lực lượng nòng cột trong công cuộc "Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đặm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân bản, dân chủ tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chịa và thấm sâu vào quờ đời sống tầng lớp, trở thành sức mạnh nội sinh quan yếu của phát triển"; "phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa kết nạp những tinh hoa văn hóa của nhân loại, xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thật sự là nền móng tinh thần của tầng lớp, là một động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế" mà Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng đã chỉ ra. NGUYỄN SĨ ĐẠI |